Nuôi con nuôi với yếu tố nước ngoài không chỉ là quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em mà còn là sự kết nối và tạo ra những mối quan hệ gia đình đặc biệt giữa các đối tượng khác nhau. Có thể xem xét từ các góc độ khác nhau như sau, đây là một trải nghiệm tuyệt vời cho công dân Việt Nam khi chọn nuôi con nuôi từ nước ngoài. Việc này không chỉ là một hành động nhân đạo mà còn mang lại cơ hội cho trẻ em Việt Nam có được một môi trường gia đình ổn định và yêu thương. Sự hiện diện của người nước ngoài trong gia đình đồng thời mang lại sự đa dạng văn hóa và giáo dục cho trẻ, mở rộng tầm nhìn của họ và giúp họ phát triển toàn diện. Nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Vĩnh Phúc như thế nào?
Các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Khi người nước ngoài thường trú ở Việt Nam quyết định nuôi con nuôi, họ đang tạo ra một cơ hội để xây dựng một gia đình đa văn hóa và hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam. Việc này không chỉ thể hiện lòng nhân đạo mà còn đóng góp vào sự đa dạng văn hóa và tạo ra những mối quan hệ tương tác tích cực với cộng đồng xung quanh.
Theo Điều 28 của Luật Nuôi con nuôi 2010, việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định rõ như sau:
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người nước ngoài thường trú ở nước cùng, nếu là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam, có thể nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Điều này đặt ra một cơ hội quan trọng cho việc xây dựng các mối quan hệ gia đình đa dạng và đa văn hóa.
Ngoài ra, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người nước ngoài thường trú ở nước ngoài cũng có quyền nhận con nuôi đích danh trong một số trường hợp cụ thể. Điều này bao gồm việc nhận con nuôi là cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi, cũng như có thể nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi. Thậm chí, người nước ngoài đang làm việc hoặc học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm cũng có thể được phép nhận con nuôi tại đất nước này.
Không chỉ riêng người Việt Nam định cư ở nước ngoài, ngược lại, công dân Việt Nam thường trú trong nước cũng được quyền nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi. Điều này tạo điều kiện cho sự đa dạng và phong phú trong các gia đình Việt Nam.
Cuối cùng, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam cũng được đặc quyền nhận con nuôi tại đất nước này, mở ra cơ hội cho sự đoàn kết và giao lưu văn hóa giữa cộng đồng quốc tế và Việt Nam. Điều này đồng thời làm nổi bật tầm quan trọng của việc tạo ra một môi trường hỗ trợ cho việc nuôi dưỡng và chăm sóc cho những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Điều kiện đối với người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
Trong trường hợp một bên định cư ở nước ngoài, việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trở thành một phương tiện giữ liên kết giữa quê hương và đất nước mới. Trẻ em được nuôi dưỡng trong môi trường văn hóa Việt Nam, đồng thời tiếp xúc với văn hóa nước ngoài thông qua gia đình là một cách tốt để duy trì và truyền đạt giá trị và truyền thống từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Theo Điều 29 của Luật Nuôi con nuôi 2010, các điều kiện đối với người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định cụ thể như sau:
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người nước ngoài thường trú ở nước ngoài, khi nhận người Việt Nam làm con nuôi, phải tuân thủ đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi họ thường trú và đồng thời tuân thủ quy định tại Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi 2010. Điều này bao gồm năng lực hành vi dân sự đầy đủ, độ tuổi hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên, có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở để bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi, và có tư cách đạo đức tốt.
Ngược lại, công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi cũng phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 14 của Luật và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú. Điều này là một bước quan trọng để đảm bảo rằng môi trường nuôi dưỡng con nuôi là an toàn, ổn định và phát triển tích cực cho tất cả các bên liên quan.
Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010 đặt ra các tiêu chí cụ thể cho người nhận con nuôi. Điều này bao gồm năng lực hành vi dân sự đầy đủ, độ tuổi hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên, có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, và chỗ ở để đảm bảo chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi, cũng như có tư cách đạo đức tốt. Đồng thời, quy định rõ những trường hợp không được nhận con nuôi, như người đang chấp hành hình phạt tù, có án tích về các tội phạm nghiêm trọng, hoặc đang bị hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Rất đáng chú ý là trong trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ hoặc mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi, cũng như khi cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi, không áp dụng quy định về độ tuổi hơn 20 tuổi và điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở (điều b và điều c khoản 1). Điều này thể hiện sự linh hoạt trong quy định, nhằm phản ánh đến các mối quan hệ gia đình đặc biệt và cần được xem xét theo cách riêng biệt.
Nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Vĩnh Phúc như thế nào?
Việc “nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài” là quá trình mà một gia đình hoặc cá nhân ở trong một quốc gia nhất định quyết định chấp nhận và chăm sóc một đứa trẻ có yếu tố nước ngoài, có thể là người nước ngoài hoặc có liên quan đến nước ngoài. Yếu tố nước ngoài có thể bao gồm quốc tịch, văn hóa, hoặc quan hệ họ hàng của trẻ em.
Theo tiểu mục 2 Mục B Phần I Thủ tục hành chính được chuẩn hóa trong lĩnh vực nuôi con nuôi, mà Quyết định 169/QĐ-BTP năm 2021 đã ban hành, hồ sơ đề nghị giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đối với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ bao gồm nhiều tài liệu quan trọng.
Hồ sơ của người nhận con nuôi:
- Đơn xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi: Sử dụng cho trường hợp nhận con riêng hoặc cháu ruột.
- Bản sao Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế: Để xác nhận danh tính và quốc tịch của người nhận con nuôi.
- Văn bản cho phép được nhận con nuôi ở Việt Nam: Điều này đảm bảo rằng người nhận con nuôi đã có sự đồng thuận và chấp thuận từ cơ quan có thẩm quyền.
- Bản điều tra về tâm lý, gia đình: Để đánh giá khả năng chăm sóc và nuôi dưỡng của người nhận con nuôi.
- Văn bản xác nhận về tình trạng sức khỏe: Thông tin này cần để đảm bảo rằng người nhận con nuôi có khả năng chăm sóc trẻ em.
- Văn bản xác nhận về thu nhập và tài sản: Điều này giúp đánh giá khả năng kinh tế của người nhận con nuôi trong việc chăm sóc trẻ em.
- Phiếu lý lịch tư pháp: Để xác định xem người nhận con nuôi có lịch sử pháp lý tích cực không.
- Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân: Thông tin này phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của người nhận con nuôi. a. Trường hợp người nhận con nuôi là cặp vợ chồng: Cần giấy chứng nhận kết hôn. b. Trường hợp người nhận con nuôi là người độc thân: Cần giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
- Tài liệu chứng minh thuộc trường hợp được xin đích danh, bao gồm:
a. Bản sao giấy chứng nhận kết hôn của cha dượng hoặc mẹ kế với mẹ đẻ hoặc cha đẻ của người được nhận làm con nuôi.
b. Giấy tờ, tài liệu để chứng minh người nhận con nuôi là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi.
Lưu ý: Các giấy tờ nước ngoài cần phải được hợp pháp hoá tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao Việt Nam, hoặc cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hoá lãnh sự theo các điều ước quốc tế.
Hồ sơ của người được nhận làm con nuôi:
- Giấy khai sinh: Để xác định thông tin cơ bản về trẻ em.
- Giấy khám sức khỏe: Cấp bởi cơ quan y tế cấp huyện trở lên, đảm bảo sức khỏe của trẻ em.
- Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng: Để làm rõ diện mạo của trẻ em.
- Giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án: Đối với trẻ em mồ côi hoặc cha mẹ mất tích.
- Văn bản lấy ý kiến đồng ý: Cần từ cha mẹ đẻ, người giám hộ, và trẻ em từ 9 tuổi trở lên.
- Văn bản của Sở Tư pháp xác nhận trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi nước ngoài: Đảm bảo rằng trẻ em đủ điều kiện để làm con nuôi ở nước ngoài.
- Văn bản về đặc điểm, sở thích, thói quen: Đối với trường hợp cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi.
- Trường hợp nhận đích danh trẻ em là anh, chị, em ruột của con nuôi trước đó:
Bản sao quyết định của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam cho người nhận con nuôi nhận con nuôi trước đó và giấy tờ, tài liệu để chứng minh người con nuôi đó với trẻ em được nhận làm con nuôi là anh, chị em ruột.
Thông tin liên hệ:
Trên đây là nội dung liên quan đến vấn đề “Nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Vĩnh Phúc như thế nào?“. Nếu quý khách hàng đang có bất kỳ băn khoăn hay thắc mắc đến dịch vụ pháp lý tư vấn luật đất đai cần được giải đáp, các Luật sư, luật gia chuyên môn sẽ tư vấn, giúp đỡ tận tình, hãy gọi cho chúng tôi để được tư vấn nhanh chóng, hiệu quả
Câu hỏi thường gặp
Theo Điều 9 Luật nuôi con nuôi 2010, thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi được quy định cụ thể như sau:
– Cơ quan Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước.
– Cơ quan Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
– Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài.
Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi được quy định tại Điều 24 Luật nuôi con nuôi 2010 như sau:
“Điều 24. Hệ quả của việc nuôi con nuôi
1. Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi.
Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó.
3. Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.
4. Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.”